Thứ Tư, 8 tháng 9, 2010

Bực...

Viết sắp xong một bài thì bị out, thế là công toi.

mất hứng quá

2-9-100k


Có lẽ lại bắt đầu bằng cái câu cũ rích nhưng kể ra cũng chẳng tìm được từ nào hơn: " đã lâu quá không viết lách gì…".

Quả vậy, đã lâu quá không viết lách,đêm nay dở chứng không ngủ được, leo lên giường rồi lại tụt xuống. bật đèn phòng đọc sách nhỏ thôi để khỏi làm vợ thức giấc.

Muốn viết nhiều lắm, tự trong lòng nhiều thứ muốn viết ra, nhưng tất cả cứ như một cuộn chỉ rối không biết bắt đầu gỡ từ đâu nữa. Thôi thì bắt đầu từ cái dãy số kia vậy.

2-9-100k.

Cũng không có gì khó hiểu lắm về cái dãy số này cả. 2-9 là ngày quốc khánh, là ngày ai ai cũng nghỉ, hoan hỉ chờ đón đi chơi hay ngủ, đàn đúm tụ tập hát hò hay đi xa vãn cảnh muôn nơi, về quê thăm gia đình hay đổ xô ra thành thị thăm thú xem thành thị thế nào, sắp ngàn năm mà ... muôn nghìn lý do để mà làm, mỗi người mỗi ý.

Chiều hôm mùng 1, cô kế toán gọi vào " anh vào lấy tiền 2/9 nhé". Ôi, vẫn còn cái lệ thưởng tiền 2/9 nhỉ. Kể ra một năm cũng nhiều dịp để nhận thưởng nhẩy. " anh được 100k, ký vào đây cho em."

Đoán trước là sẽ chỉ thế thôi, nhưng mà sao cầm tiền trong tay vẫn thấy lòng đăng đắng. Thôi thì chẳng có nhiều, như vậy cũng là đã quan tâm đến anh em ngày lễ, tự an ủi mình, " có còn hơn không, đủ tiền đổ xăng hai tuần rồi".

Có tiền rồi thì giờ ta nghĩ đến cách tiêu tiền.

Liên hoan ah? 100k liên hoan thì không được, đi chợ có 100k, bù thêm thì chết. Chiều có thằng bạn rủ đi hát hò tý, 100k thế này mà đóng thì không đủ, hát hò thì cũng phải ăn cái gì rồi mới có sức mà hát hò chứ, xem ra thì hỏng vụ này rồi.

Hay mua cài gì về nhà? Mua cái gì về nhà được nhỉ?...

Hay là đi ăn ngoài?

Hay là... hay là .....hàng loạt giả thiết đặt ra trong đầu mà chưa biết làm thế nào cho đủ số tiền kia.

Đấy, không có tiền thì kêu không có, giờ có tiền mà tiêu cũng khó quá, chẳng lẽ lại mang về cho vợ, rồi đắp chăm đi ngủ, Quốc khánh 65 năm cơ mà, nghỉ 4 ngày cơ mà.Khó nhỉ. Có 1 triệu 2 triệu có khi tiêu lại còn dễ hơn 100k thế này.

Thứ Hai, 17 tháng 5, 2010

LINH CHI VIETNAM - LINH CHI HAN QUOC

CHÚNG TÔI HIỆN ĐANG CUNG CẤP LINH CHI VIỆT NAM , ĐƯỢC NUÔI TRỒNG TẠI TRUNG TÂM CÔNG NGHỆ SINH HỌC THỰC VẬT – VIỆN DI TRUYỀN NÔNG NGHIỆP
LIÊN HỆ NGAY: Mr Hùng 0988.719.881

TÁC DỤNG VÀ CÁCH DÙNG NẤM LINH CHI

1. Tăng khả năng miễn dịch của cơ thể, có thể phòng chữa trị nhiều bệnh do khả năng miễn dịch bị suy giảm gây nên bệnh phù thũng viêm gan.
2. Tăng khả năng cung cấp ôxy cho máu, các chứng bệnh thiếu ôxy ở người già yếu, bệnh tức ngực đau đầu, thần kinh
3. Có tác dụng an thần, trị bện thần kinh suy nhược, mắt kém, hay mơ thấy chiêm bao.
4. Điều tiết khả năng miễn dịch, làm cho thở đều, giảm ho, chữa viêm thận, hen.
5. bài tiết các chất độc trong cơ thể,da dẻ đẹp, có tác dụng loại bỏ các sắ tố lạ trên da, đồng thời giúp cho việc phát triển hình thành Protein, DNA, RNA, kéo dài tuổi thọ
6. Giảm đường trong máu, trong nước giải, giảm mỡ, làm giảm động mạch, tăng lượng máu tuần hoàn, chữa cá bênh về máu, co thắt tim.

Linh chi còn có hiệu quả rõ rệt đối với các bệnh như: Mỡ nhiều trong máu, tim, cao huyết áp, huyết áp thấp, biến chứng sau khi tràn dịch não, viêm pheea quản mãn, đâu thắt cơ tim, đau dạ này, ăn kém, giảm bạch cầu, tim đập mạnh (nhịp tim cao), chân tay lạnh, đổ mồ hôi, tiền liệt tuyến, táo bón, bện trĩ, nghẽn mạch máu, đái ra máu…

GÍA BÁN : 400.000 ĐỒNG/ KG
( CÓ CẢ XAY SẴN VÀ NGUYÊN CHIẾC)

LIÊN HỆ NGAY: Mr Hùng 0988.719.881

Thứ Năm, 8 tháng 4, 2010

CON SÓNG......ĐỜI NGƯỜI...

Đã lâu lại có cơ hội ngồi trước Biển, mà lại là nơi Biển đẹp và thơ mộng quá. Ngắm biển, đi trên biển, lặn vào lòng biển, nhìn sau vào lòng biển để thấy biển đẹp và yên ả nhường nào.Ngồi trước biển thấy con người nhỏ bé quá.

Dù ban ngày, dưới ánh nắng chói trang, đêm khuya trong cái mát lạnh của gió biển, những con sóng trắng xóa vẫn chăm chỉ vỗ bờ. Xa rồi lại gần, vào rồi lại ra, ôm lấy bờ cát rồi lại thả ra đùa rỡn suốt ngày đêm như đọ sức cùng nhật nguyệt.


Sóng ầm ầm, ồn ào, mạnh mẽ rồi lại hiền hòa nhẹ nhành mơn man bờ cát. Cứ như thế, tôi ngắm mãi, ngắm mãi mà không thấy chán, không thấy đơn diệu nhạt nhẽo. Nhìn những con sóng vỗ bờ lại liên tưởng tới cuộc sống con người.

Cuộc sống con người cũng như con sóng kia, lúc mạnh mẽ ầm ầm, lúc khoan thai hỷ hả, Lúc vui mừng khôn tả, lúc lại ôn tồn miên man trầm buồn. Thế rồi hết miên man lại hỷ hả, hỷ hả lại miên man trầm buồn không bao giờ hết.

Thế nên, cũng như con sóng kia, không phải lúc nào cũng hiền hòa, không phải là mạnh mẽ mãi mãi... Điều đó làm cho tôi tin, càng tin hơn ràng cuộc sống con người không khi nào khó khăn mãi, và cũng chẳng khi nào thuận lợi mãi. Nhưng có khó khăn sẽ biết vượt qua, thuận lợi nhiều sẽ phải tính những lúc khó khăn.

Cảm ơn nững con sóng, cảm ơn sự miệt mài vỗ bờ để tôi hiểu thêm được thế nào là cuộc sống.

Thứ Bảy, 16 tháng 1, 2010

Mật mã Tây Tạng




Hà Mã: Cho dù là tác giả “hot” nhất tại Trung Quốc hiện nay, tên tuổi thực và xuất thân cụ thể của Hà Mã vẫn là một bí ẩn đối với độc giả. Những thông tin ít ỏi mà người ta biết được về anh là Hà Mã sinh ra người Tứ Xuyên, đã từng sống 10 năm ở Tây Tạng. Anh là người thích thích thám hiểm, từng một mình vượt qua Khả Khả Tây Lý, rừng rậm nguyên thủy Xi Xuang Ba Na – là những khu vực hoang vu và hiểm nguy chết người tại Tây Tạng. Kiến thức, kinh nghiệm và những ký ức anh thu được từ những chuyến đi đó cùng với lòng say mê thám hiểm và khám phá văn hóa, một tài năng hư cấu xuất sắc đã giúp Hà Mã sáng tác nên bộ sách Mật mã Tây Tạng.

Đầu năm 2008, Mật mã Tây Tạng mới xuất hiện trên internet đã trở thành một tác phẩm văn học mạng thu hút hàng triệu lượt đọc. Tác phẩm mau chóng lọt vào mắt xanh của các nhà xuất bản. Tập đoàn Xuất bản Trùng Khánh, đơn vị xuất bản tác phẩm cho biết, ban đầu nhà xuất bản dự định lần in đầu tiên sẽ là 100.000 bản, nhưng đơn đặt hàng của các tiệm sách lớn ồ ạt gửi đến, nên đã lên thành 200.000 bản. Chưa đầy một tuần sau khi phát hành, trong kho sách đã không còn sót lại cuốn nào. Trong khi đó, hơn một trăm nhà xuất bản trên khắp thế giới, bao gồm cả tập đoàn Penguin của Mỹ đang ra sức cạnh tranh giành quyền xuất bản Mật Mã Tây Tạng ở nước ngoài. Tác giả Hà Mã trở thành tác giả có sức thu hút nhất tại Trung Quốc.

Mật mã Tây Tạng đã trở thành cảm hứng cho một game online hiện rất thịnh hành tại Trung Quốc.

Chuyến phiêu lưu dài tám tập sách trên đất Tây Tạng được mở ra tại một khán phòng trên đất Mỹ. Trác Mộc Cường Ba – người đàn ông sinh ra trên đất Tây Tạng, hiện đã là một thương nhân thành danh, giàu có với nghề nuôi dạy và kinh doanh chó Ngao Tây Tạng. Nhưng, giữa bài phát biểu khai mạc cuộc thi chó Ngao quốc tế do công ty mình tổ chức, Trác Mộc Cường Ba nhận được hai tấm ảnh bí ẩn khiến anh mất hết tự chủ, sẵn sàng vứt bỏ cuộc thi quay trở lại Trung Quốc. Hai tấm ảnh chụp một con chó ngao kỳ quái mà Trác Mộc Cường Ba nhất định tin rằng chính là Tử Kỳ Lân trong truyền thuyết nghìn năm mà đất Tây Tạng vẫn lưu truyền. Không thể chậm trễ hơn, Cường Ba tìm cách thuyết phục người thầy vốn là giáo sư uyên thâm về chó ngao đi cùng anh về quê nhà Tây Tạng, lần theo dấu vết mà tấm ảnh hé lộ để tìm cho được Tử Kỳ Lân trong truyền thuyết. Nhưng, Trác Mộc Cường Ba không ngờ rằng trong chuyến đi định mệnh này, anh còn phải gánh vác trách nhiệm tìm kiếm cho được bộ Tạng kinh quý hiếm ngàn năm vốn do người Qua Ba giữ gìn. Và mọi chuyện sẽ ra sao khi giữa muôn trùng núi non hùng vỹ, thiên nhiên hiểm trở là những kẻ thù dấu mặt quyết săn đuổi hai thầy trò Trác Mộc Cường Ba?


Bìa cuốn Mật mã Tây Tạng

Mật mã Tây Tạng không chỉ tạo nên một hiện tượng xuất bản lớn đối Trung Quốc mà còn khiến hàng nghìn độc giả trở nên say mê thám hiểm. Sau khi được xuất bản, không chỉ các cửa hàng sách mà cả các cửa hàng bán dụng cụ thám hiểm cũng bày bán cuốn sách tại những vị trí trang trọng nhất. Mảnh đất Tây Tạng từ xưa vốn chứa đựng nhiều bí ẩn lịch sử cũng như huyền thoại vẫn là nơi gọi mời những ai có khát vọng khám phá. Cuốn sách của Hà Mã giống như một trận cuồng phong thổi bùng lên khao khát được băng mình vào một trong những chốn hùng vĩ nhưng cũng hiểm nguy nhất thế giới, để đích thân trải nghiệm những điều được Hã Mã diễn tả chi tiết với niềm say mê vùng đất anh đã hơn mười năm ẩn dật.

Tác phẩm này đồng thời cũng nhận được nhiều lời khen ngợi của các nhà phê bình như một đại hùng thư của thời hiện đại, thậm chí gọi đó là “Sử thi Hà Mã” bởi lượng kiến thức khổng lồ về thiên nhiên, con người, văn hóa mà đặc biệt là phật giáo Tây Tạng mà Hà Mã đã đưa vào tác phẩm. Mật Mã Tây Tạng cũng thể hiện được tài năng kể chuyện đặc biệt lôi cuốn của Hà Mã khi anh khéo léo đan cái hàng trăm chi tiết liên quan đến truyền thuyết, lịch sử, khoa học, những cuộc săn đuổi rợn người hay những âm mưu tinh vi thâm hậu vào hành trình tìm kiếm của Trác Mộc Cường Ba. Đó có lẽ là những nét chủ đạo làm nên sức hấp dẫn cho bộ kỳ thư về vùng đất thiếng dưới góc nhìn thám hiểm này.

Tập đầu tiên của bộ Mật mã Tây Tạng đã được ấn hành tại Việt Nam vào tháng 11/2009. Bảy tập còn lại sẽ lần lượt được cho ra mắt độc giả trong năm 2010.

Mình đã có tập đầu tiên, hy vọng là năm 2010 sẽ được sở hữu trọn bộ 8 tập .

Thứ Sáu, 8 tháng 1, 2010

“Bạn không thể làm được những điều to lớn, bạn chỉ có thể làm được những việc nhỏ với tình yêu to lớn mà thôi”...




“Bạn không thể làm được những điều to lớn, bạn chỉ có thể làm được những việc nhỏ với tình yêu to lớn mà thôi”...

Mother Teresa (giải Nobel Hòa Bình 1979)

Nhân dịp đọc về câu nói nổi tiếng này, hãy dành đôi chút thời gian nhìn lại cuộc đời của con người nhỏ bé nhưng đã làm được những điều nhỏ bé với tình yêu lớn.


Mẹ Teresa
MotherTeresa 090.jpg
Mẹ Teresa
Sinh 26 tháng 8 1910
Üsküp, Đế quốc Ottoman (nay là Skopje, Cộng hòa Macedonia)
Mất 5 tháng 9 năm 1997 (87 tuổi)
Calcutta, Ấn Độ
Quốc tịch Ấn Độ
Nghề nghiệp Nữ tu Công giáo Rôma, nhà từ thiện[1]


Mẹ Teresa (Tiếng Albania: Agnes Gonxha Bojaxhiu, tiếng Macedonia: Агнес Гонџа Бојаџиу, Latinic: Agnes Gondža Bojadžiu; IPA: ['agnɛs 'gɔndʒa bɔ'jadʒu]) (26 tháng 8, 1910 – 5 tháng 9, 1997) là nữ tu Công giáo Rôma người Albania, và là nhà sáng lập Dòng Thừa sai Bác Ái ở Kolkata (Calcutta), Ấn Độ năm 1950. Trong hơn bốn mươi năm, bà chăm sóc người nghèo, bệnh tật, trẻ mồ côi, người hấp hối, trong khi hoàn tất nhiệm vụ lãnh đạo dòng tu phát triển khắp Ấn Độ, và đến các quốc gia khác.

Năm 1970, Mẹ Teresa trở nên một nhân vật toàn cầu nổi tiếng với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng, một phần là nhờ một quyển sách và cuốn phim tư liệu tựa đề Something Beautiful for God của Malcome Muggeridge. Bà được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1979 như một sự vinh danh cho các hoạt động nhân đạo của bà.

Dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Teresa tiếp tục phát triển, đến thời điểm bà từ trần, tổ chức từ thiện này đang điều hành 610 cơ sở truyền giáo tại 123 quốc gia, trong đó có các nhà trọ và nhà tình thương có người mắc bệnh HIV/AIDS, cũng như bệnh nhân phong và lao, các bếp ăn từ thiện, các chương trình tư vấn cho gia đình và trẻ em, các trại mồ côi, và trường học.

Mặc dù Teresa được tôn vinh bởi nhiều cá nhân, chính quyền và các tổ chức, bà cũng là mục tiêu của không ít chỉ trích từ những người như Christopher Hitchens, Aroup Chatterjee, và Vishva Hindu Parishad. Thường thì những phê phán này nhắm vào nỗ lực cải đạo trong công tác từ thiện, trong đó có việc rửa tội cho những người sắp chết; lập trường cứng rắn chống phá thai, và niềm tin cho rằng sự nghèo khó sản sinh những lợi ích tâm linh; ngoài ra cũng có một số quan ngại về tình trạng thiếu minh bạch trong việc chi tiêu các khoản tiền quyên góp.

Sau khi mất, bà được Giáo hoàng John Paul II phong chân phước.

Lịch sử cuộc đời.

Thiếu thời

Agnes Gonxha (tiếng Albania nghĩa là “chồi hồng”) Bojaxhiu chào đời ngày 26 tháng 8 năm 1910 tại Skopje, lúc đó là thủ phủ của tỉnh Kossovo Vilayet thuộc Đế quốc Ottoman; nay là thủ đô Cộng hòa Macedonia. là con út của một gia đình đến từ Shkodër, Albania, cha mẹ của cô là Nikola và Dranafile (tiếng Albania nghĩa là “hoa hồng”) Bojaxhiu. Nikola có hoạt động chính trị tại Albania. Năm 1919, sau một cuộc hội họp ông ngã bệnh và qua đời khi Agnes mới lên tám. Sau khi bố mất, mẹ nuôi dưỡng cô trong đức tin Công giáo Rôma. Theo người viết tiểu sử Teresa, Joan Graff Clucas, từ khi còn thơ ấu, Agnes đã ham thích đọc các câu chuyện về cuộc đời các thừa sai và hoạt động của họ, đến tuổi 12 cô tin rằng nên hiến mình cho đời sống tôn giáo. Năm 18 tuổi, cô gia nhập Dòng Nữ tu Loreto, từ đó cô không bao giờ gặp lại mẹ và chị.

Trước tiên, Agnes đến Tu viện Loreto ở Rathfarnham, Ái Nhĩ Lan để học tiếng Anh, ngôn ngữ dòng Loreto dùng để dạy học tại Ấn Độ. Cô đến Ấn Độ năm 1929, và bắt đầu cuộc đời nữ tu tập sinh tại Darjeeling, gần dãy Himalaya. Ngày 24 tháng 5 năm 1931, cô làm lễ tiên khấn để trở thành nữ tu. Cô chọn tên Teresa theo tên Thérèse de Lisieux, thánh bổn mệnh của các thừa sai. Ngày 14 tháng 5 năm 1937, Teresa khấn trọn đời, khi ấy cô đang dạy học tại trường Loreto ở phía đông Calcutta.

Mặc dù bận rộn với nhiệm vụ giảng dạy tại trường, Teresa ngày càng quan tâm đến cuộc sống nghèo khổ nhan nhản chung quanh cô tại Calcutta. Nạn đói năm 1943 mang nhiều điều bất hạnh và chết chóc đến thành phố; rồi các cuộc bạo động giữa người Hindu và người Hồi giáo trong tháng 8 năm 1946 nhấn chìm thành phố này trong nỗi kinh hoàng và sự tuyệt vọng.
Dòng Thừa sai Bác ái

Ngày 10 tháng 9 năm 1946, Teresa trải nghiệm điều mà cô miêu tả là “ơn gọi trong ơn gọi” khi cô đang trên đường đến Tu viện Loreto ở Darjeering cho thời kỳ tĩnh tâm hằng năm. “Tôi phải rời tu viện để giúp đỡ người nghèo và sống chung với họ. Đó là mệnh lênh. Không chịu tuân theo có nghĩa là đánh đổ đức tin.” Năm 1948, Teresa khởi đầu công tác thừa sai giữa người nghèo, cô thay bộ áo truyền thống của dòng Loreto bằng trang phục chira giản dị bằng vải cotton viền màu lam. Cô nhập tịch Ấn, và đi vào các khu nhà ổ chuột. Trước tiên, Teresa mở một trường học ở Motjhil, rồi bắt đầu chăm sóc những người bần cùng đói khát.

Teresa viết trong nhật ký rằng năm đầu tiên cô gặp vô số khó khăn. Vì không có nguồn cung ứng tài chính, cô phải phụ thuộc vào hoạt động quyên góp thực phẩm và nhu yếu phẩm. Trong những tháng đầu, cô phải đấu tranh với sự hoài nghi, đơn độc và sự cám dỗ quay trở lại cuộc sống tiện nghi trong tu viện. Teresa ghi lại trong nhật ký:

Chúa chúng ta muốn tôi phải là một nữ tu tự do ẩn mình dưới sự nghèo khó của thập tự giá. Hôm nay tôi học được một bài học hay. Sự nghèo khổ của người nghèo thật là nghiệt ngã. Trong khi tìm kiếm một ngôi nhà, tay chân tôi đau nhức vì đi bộ. Tôi suy nghĩ, người nghèo còn chịu đựng sự nhức nhối bội phần hơn trong thể xác và linh hồn khi tìm kiếm một chỗ trú thân, thức ăn và sức khỏe. Khi ấy, cuộc sống tiện nghi tại Loreto xuất hiện đầy quyến rũ. ‘Chỉ cần nói một lời, tất cả sẽ trở lại với cô,’ Kẻ cám dỗ cứ tiếp tục nói…. Chúa ôi, đây là sự tự nguyện, vì con yêu Chúa, con muốn ở lại và làm bất cứ điều gì theo Thánh Ý. Con không khóc đâu, dù chỉ một giọt lệ.

Mẹ Teresa,Tranh khắc nổi tại một tòa nhà ở quảng trường Václavské náměstí, Olomouc, (Cộng hòa Séc)

Ngày 7 tháng 10 năm 1950, Vatican chấp thuận cho Teresa khởi đầu một dòng tu sau này trở thành Dòng Thừa sai Bác ái.Sứ mạng của dòng là chăm sóc, theo lời Teresa, “người đói khát, trần truồng, kẻ không nhà, người tàn tật, người mù, bệnh nhân phong, bất cứ ai đang cảm thấy thừa thãi, bị căm ghét, ruồng bỏ trong xã hội, những người đang là gánh nặng của xã hội và bị mọi người xa lánh.” Tiên khởi chỉ là một dòng tu nhỏ với 13 tập sinh ở Calcutta; ngày nay có hơn 4 000 nữ tu điều hành các cô nhi viện, trại điều dưỡng AIDS, và các trung tâm từ thiện trên khắp thế giới. Dòng tu cũng chăm sóc người tị nạn, người khuyết tật, già lão, nghiện rươu, người nghèo và người vô gia cư, nạn nhân lũ lụt, dịch bệnh, và nạn đói.

Năm 1952, Mẹ Teresa mở ngôi nhà đầu tiên chăm sóc người sắp chết. Với sự hỗ trợ từ các viên chức Ấn, bà cho sửa một ngôi đền Ấn giáo hoang phế thành Nhà Kalighat cho người Hấp hối, một trại điều dưỡng miễn phí cho người nghèo. Sau này bà đổi tên thành Kalighat, Nhà Thanh Tâm (Nirmal Hriday). Những người được mang đến đây được chăm sóc y tế và được chết trong nhân phẩm, được chôn cất theo niềm tin tôn giáo của họ; người Hồi giáo được đọc kinh Quran, người Hindu được tẩy rửa bằng nước sông Hằng, và người Công giáo được làm lễ xức dầu thánh. “Một cái chết đẹp”, bà nói, cho những người từng sống kiếp thấp hèn như những con vật, nhưng chết như những thiên thần – được yêu thương và được trọng vọng.” Không lâu sau đó, bà mở một ngôi nhà cho những người mắc bệnh Hansen (phong cùi), đặt tên là Shanti Nagar (Thành phố Hòa bình).Dòng Thừa sai Bác ái cũng thành lập một số cơ sở y tế mở rộng trên khắp Calcutta, cung cấp thuốc men, thực phẩm.

Năm 1955, Teresa mở Nirmala Shishu Bhavan, Nhà Trái tim Vô nhiễm đón tiếp trẻ mồ côi và thanh thiếu niên vô gia cư.

Dòng tu ngày càng thu hút nhiều tập sinh và nhận nhiều đóng góp từ thiện. Đến thập niên 1960, Dòng Thừa sai Bác ái thành lập các nhà điều dưỡng, trại mồ côi, và trại phong trên khắp Ấn Độ, rồi phát triển trên khắp thế giới. Ngôi nhà đầu tiên ngoài Ấn Độ được thành lập ở Venezuela năm 1965 với năm nữ tu. Năm 1968, đến La Mã, Tanzania, và Áo. Trong thập niên 1970, dòng tu thiết lập các ngôi nhà và tổ chức trong hơn mười quốc gia ở châu Á, châu Phi, châu Âu, và Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, triết lý hành động của bà gặp phải một số chỉ trích. Trong khi nhìn nhận rằng không có nhiều chứng cứ được đưa ra để chống lại Teresa, David Scott nhận xét rằng bà tự giới hạn mình trong phạm vi hoạt động nhằm cứu sống người khác thay vì nỗ lực giải quyết nạn nghèo đói. Quan điểm của Teresa về sự đau khổ cũng bị phê phán bởi một bài viết đăng trên tuần báo Alberta Report của Canada, vì bà cho rằng sự đau khổ sẽ đem con người đến gần Chúa Giê-xu hơn.Các tạp chí y khoa, nhất là The Lancet và British Medical Journal, tỏ ra quan ngại về cách chăm sóc bệnh nhân thời kỳ cuối tại những nhà dành cho người hấp hối, ghi nhận việc tái sử dụng kim tiêm dưới da, điều kiện sống tồi tệ, trong đó có việc tắm lạnh tất cả người bệnh, và không áp dụng phương pháp chẩn đoán phối hợp.

Nhà báo Christopher Hitchens là một trong số những người phê phán Teresa mạnh mẽ nhất. Ông được giao viết kịch bản và thuyết minh cuốn phim tài liệu Hell’s Angel của Kênh 4 Anh Quốc về Teresa sau khi Aroup Chatterjee khuyến khích thực hiện chương trình này, mặc dù Chatterjee cũng không hài lòng với “các tiếp cận đầy cảm xúc” của cuốn phim. Trong cuốn “The Missionary Position” (1995) của ông, Hitchens chỉ trích Teresa nặng nề hơn.

Chatterjee viết rằng sinh thời Mẹ Teresa và những người viết tiểu sử chính thức của bà từ chối hợp tác với ông trong cuộc điều tra, và bà không thể tự biện hộ trước những phê phán trên báo chí phương Tây. Ông dẫn một bài viết từ tờ The Guardian của Anh đưa ra những “chi tiết phê phán về điều kiện sống tại những trại mồ côi của bà….những cáo buộc về sự vô tâm cũng như những lạm dụng thể xác và tình cảm”, cũng có một phim tài liệu khác, Mother Teresa: Time for Change? phát sóng tại vài nước châu Âu. Trong số những người chỉ trích Teresa còn có Tariq Ali, một thành viên của ban biên tập của tờ New Left Review ở Anh, và một nhà báo điều tra sinh trưởng ở Ái Nhĩ Lan Donald MacIntyre. Do lập trường của mình, cả Chatterjee và Hitchens cũng trở thành những đối tượng bị chỉ trích.

Vào dịp kỷ niêm năm thứ nhất ngày mất của Mẹ Teresa, Tạp chí Stern của Đức cho đăng một bài viết về những cáo buộc liên quan đến các vấn đề tài chính, và việc sử dụng các khoản quyên góp. Các tạp chí y học cũng đưa ra những chỉ trích làm dấy lên các quan điểm khác nhau về những ưu tiên đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân.

Christopher Hitchens, nhân chứng duy nhất được Vatican đề nghị trình bày chứng cứ chống lại việc phong chân phước và phong thánh cho Teresa, lập luận rằng, “bà không có ý định giúp đỡ người khác”, ông cũng cáo buộc bà đã nói dối những người hiến tặng về việc sử dụng những khoản đóng góp của họ. “Nhờ nói chuyện với bà, tôi phát hiện ra rằng bà không làm việc để xóa nghèo,” lời của Hitchens, “Bà làm việc để gia tăng số giáo dân Công giáo. Bà nói, ‘Tôi không phải là nhân viên công tác xã hội. Tôi làm việc không phải vì mục tiêu này. Tôi làm thế là cho Chúa Ki-tô. Tôi làm thế là cho giáo hội.

Quốc tế

Năm 1982, khi cuộc bao vây Beirut lên đến đỉnh điểm, Mẹ Teresa đã thành công trong nỗ lực giải cứu 37 trẻ em mắc kẹt trong một bệnh viện giữa mặt trận bằng cách đàm phán cho một cuộc ngừng bắn giữa quân đội Israel và du kích Palestine. Được các nhân viên Hồng Thập Tự hộ tống, bà băng qua trận địa để đến ngôi bệnh viện đổ nát và giải cứu các bệnh nhi

Khi Đông Âu bắt đầu mở cửa vào cuối thập niên 1980, Teresa cho tiến hành hàng chục đề án tại các quốc gia trong vùng. Không hề nao núng khi bị chỉ trích về lập trường cứng rắn của bà về việc chống phá thai và li dị, bà chỉ nói, “Người ta nói gì cũng mặc, bạn chỉ cần cười và tiếp tục công việc của mình.”

Mẹ Teresa đã đến Ethiopia cứu giúp những người bị nạn đói, đến Chernobyl giúp người nạn nhân phóng xạ, và đến với nạn nhân động đất ở Armenia. Năm 1991, lần đầu tiên bà trở lại quê hương và mở ngôi nhà Dòng Thừa sai Bác ái tại Tirana, Albnia.

Năm 1966, bà điều hành 517 cơ sở từ thiện trên hơn 100 quốc gia. Trải qua nhiều năm, Dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Teresa từ thành phần nhân sự chỉ 12 người đã phát triển đến hàng ngàn người phục vụ “những người nghèo nhất của dân nghèo” tại 450 trung tâm trên khắp thế giới.

Cuối đời

Mẹ Teresa bị cơn đau tim khi đến Rôma năm 1983 trong chuyến viếng thăm Giáo hoàng John Paul II. Sau cơn đau tim thứ hai năm 1989, bà được đặt máy tạo nhịp tim nhân tạo. Năm 1991, sau khi mắc bệnh cúm lúc đang ở Mexico, bệnh tim trở nặng. Bà muốn từ nhiệm khỏi vị trí lãnh đạo Dòng Thừa sai Bác ái, nhưng các nữ tu, trong một cuộc bỏ phiếu kín, yêu cầu bà ở lại. Mẹ Teresa đồng ý tiếp tục công việc lãnh đạo dòng tu.

Tháng 4 năm 1996, bà bị té ngã gãy xương đòn, rồi phải qua lần phẫu thuật tim, sức khỏe bà suy giảm rõ. Ngày 13 tháng 3 năm 1997, Mẹ Teresa từ chức lãnh đạo dòng tu, và từ trần ngày 5 tháng 9 năm 1997.

Tổng Giám mục Calcutta, Henry Sebastian D’Souza, thuật lại rằng ông cho một linh mục đến làm phép đuổi quỷ cho Teresa với sự cho phép của bà trong lần đầu bà vào bệnh viện khi bị đau tim, vì bà nghĩ rằng bà đang bị ma quỷ tấn công.

Vào thời điểm Mẹ Teresa từ trần, dòng tu của bà có hơn 4 000 nữ tu, với sự hỗ trợ của 300 tu sĩ, và hơn 100 000 người tình nguyện. Họ điều hành 610 cơ sở từ thiện tại 123 nước, trong đó có các nhà tế bần, những ngôi nhà mở cho người mắc bệnh HIV/AIDS, người phong cùi, lao, các nhà bếp cung cấp thức ăn, các chương trình tư vấn gia đình và trẻ em, trại mồ côi, và trường học.

Vinh danh

Mẹ Teresa được quàng ở Nhà thờ St Thomas, Kolkata trong một tuần trước khi được an táng vào tháng 9 năm 1997. Chính phủ Ấn Độ tuyên bố quốc tang để vinh danh con người từng cứu giúp nhiều người nghèo khổ thuộc các tôn giáo khác nhau trên đất nước Ấn. Trước đó năm 1962, bà được chính phủ Ấn trao giải Padma Shri. Trong những thập niên kế tiếp bà được trao tặng các giải thưởng lớn như Giải Jawaharlal Nehru cho sự Hiểu biết Quốc tế (năm 1972), và năm 1980 là giải thưởng dân sự cao quý nhất Ấn Độ, Bharat Ratna Tuy nhiên, tại Ấn Độ, cũng có những nhận định khác về Teresa. Aroup Chatterjee, một bác sĩ sinh trưởng ở Calcutta nhưng sống ở Luân Đôn và từng làm việc cho Dòng Thừa sai Bác ái, cho rằng Teresa đã quảng bá một hình ảnh tiêu cực về thành phố này. Đảng Bharatiya Janata (BJP) từng bất đồng với Teresa về những người thuộc đảng cấp Dalit (hạ tiện) theo Cơ Đốc giáo, nhưng khi bà mất, họ đã lên tiêng ca tụng và cử đại diện đến dự tang lễ. Gần đây hơn, nhật báo The Telegraph của Ấn Độ từng gọi Mẹ Teresa là “vị thánh của những người khốn cùng”, lại kêu gọi “Rôma nên điều tra xem có phải bà không chịu làm gì để thay đổi điều kiện sống tồi tệ của người nghèo, mà chỉ lo chăm sóc người bệnh và người hấp hối, và sử dụng họ cho mục tiêu khơi gợi xúc cảm đạo đức.”

Thế giới

Năm 1962, Mẹ Teresa được trao giải Ramon Magsaysay về sự Hiểu biết Quốc tế cho những hoạt động của bà ở Đông và Nam Á, “Ban Quản trị nhìn nhận sự nhận thức sâu sắc và đầy thương cảm của bà dành cho những người nghèo khó ở một xứ sở xa lạ.
Đến đầu thập niên 1970, Mẹ Teresa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới, phần lớn là do cuốn phim tài liệu Something Beautiful for God do Malcom Muggeridge sản xuất năm 1969, cũng như quyển sách cùng tên của ông xuất bản năm 1971. Khi thực hiện cuốn phim, có những đoạn phim phải quay trong điều kiện ánh sáng không tốt, nhất là tại Nhà dành cho người Hấp hối, đoàn làm phim nghĩ rằng sẽ không thể sử dụng những thước phim này. Tuy nhiên, khi trở về từ Ấn Độ, chúng lại có ánh sáng rất tốt. Muggeridge cho đó là phép lạ do “ánh sáng thần thượng” từ Mẹ Teresa. Những người khác trong đoàn làm phim thì nghĩ rằng đó là nhờ loại phim cực nhạy của Kodak. Về sau, Muggeridge chấp nhận đức tin Công giáo.
Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan trao tặng cho Mẹ Teresa Huân chương Tự do năm 1985

Cùng lúc, thế giới Công giáo khởi sự tôn vinh Mẹ Teresa. Năm 1971, Giáo hoàng Phaolô VI trao tặng bà Giải Hòa bình Giáo hoàng Gioan XXIII lần thứ nhất, khen ngợi bà về những gì đã làm cho người nghèo, thể hiện lòng nhân ái Kitô và nỗ lực đấu tranh cho hòa bình. Năm 1976, bà được trao Giải thưởng Pacem in Terris. Sau khi mất, giáo hội đẩy mạnh qui trình phong thánh cho Mẹ Teresa, hiện bà đã được phong chân phước.

Các chính phủ và những tổ chức dân sự cũng tìm đến tôn vinh Mẹ Teresa. Vương quốc Anh và Hoa Kỳ nhiều lần trao tặng bà giải thưởng các loại, cao quý nhất là Order of Merit của Anh Quốc năm 1983, và công dân danh dự của Mỹ ngày 16 tháng 11 năm 1996. Quê hương Albania của Mẹ Teresa cũng dành cho bà Huân chương Vàng Nhà nước năm 1994.

Năm 1979, Mẹ Teresa được trao tặng Giải Nobel Hòa bình cho “những hoạt động diễn ra trong sự đấu tranh vượt qua sự nghèo khó và cùng quẫn, là những điều đe dọa hòa bình.” Bà từ chối bữa tiệc mừng truyền thống và yêu cầu gởi số tiền 192 000 USD cho người nghèo ở Ấn Độ,[48] nói rằng những phần thưởng trên thế gian chỉ có giá trị chỉ nào chúng giúp ích những người thiếu thốn trên thế giới. Khi nhận giải thưởng, bà đặt câu hỏi, “Chúng ta có thể làm gì để thăng tiến nền hòa bình thế giới?”, và đưa ra câu trả lời, “Hãy về nhà và yêu chính gia đình mình.” Bài đáp từ của Mẹ Teresa cũng dựa trên chủ đề này, “Khắp nơi trên thế giới, không chỉ ở những nước nghèo, tôi thấy xóa nghèo ở phương Tây còn khó khăn hơn. Khi tôi nhặt một người ngoài đường phố, đang đói khát, tôi cho người ấy một đĩa cơm, một miếng bánh, tôi cảm thấy hài lòng vì đã cứu đói cho người ấy. Nhưng khi một người bị gạt bỏ, cảm thấy mình sống thừa thãi, không được yêu thương, sống trong kinh hãi, con người đang bị gạt ra bên lề xã hội – sự nghèo khổ ấy là khốn khổ hơn, tôi thấy rất khó mà cứu giúp.” Bà cũng chỉ ra rằng phá thai “là kẻ hủy diệt nguy hiểm nhất cho nền hòa bình thế giới”.

Các cộng đồng tôn giáo và thế tục đều thương tiếc Mẹ Teresa khi bà tạ thế. Thủ tướng Pakistan Nawaz Sharif nói rằng bà là “một cá nhân độc đáo và hiếm có, đã cống hiến đời mình cho những mục đích cao đẹp. Cuộc đời lâu dài của bà được dành để chăm sóc người nghèo, người bệnh, người bất hạnh đã trở thành một trong những hình mẫu cao quý nhất về lòng tận tụy phục vụ nhân loại. Cựu Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Javier Pérez de Cuéllar nhận xét: “Bà là Liên Hiệp Quốc. Bà là hòa bình của thế giới.

Đời sống Tâm linh

Khi phân tích các hoạt động và thành quả của bà, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đặt câu hỏi: “Từ đâu mà Mẹ Teresa tìm được sức mạnh và lòng kiên định hầu có thể hoàn toàn hiến mình cho việc phục vụ người khác? Bà tìm thấy nó trong sự cầu nguyện và trong sự tĩnh tâm suy nghiệm hướng về Chúa Giê-xu, và Thánh Tâm của Ngài. Trong cuộc sống riêng tư, Mẹ Teresa trải qua một thời gian dài chịu đựng sự khô héo, cằn cỗi trong tâm linh, sự tinh luyện và thử nghiệm đức tin trong “đêm tối của linh hồn” kéo dài gần năm mươi năm cho đến cuối đời, suốt thời gian ấy “bà không hề cảm nhận gì hết về sự hiện diện của Thiên Chúa”, - “trong lòng cũng như khi tham dự Bí tích Thánh thể” - theo lời của Linh mục Brian Kolodiejchuk, người chịu trách nhiệm trình bày thỉnh cầu và thu thập chứng cứ cho quy trình phong thánh cho Teresa. Bộc lộ những hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa, và nỗi đau dằn xé tâm linh vì thiếu vắng đức tin, bà viết,
“ Đức tin của tôi đâu rồi? Tận đáy lòng… chẳng có gì cả ngoài sự trống rỗng và tối tăm… Nếu có Chúa – xin tha tội cho con. Khi tôi cố hướng tâm trí mình đến Thiên đàng thì sự trống rỗng phủ lấp và những ý tưởng ấy dội ngược về như những mũi dao sắc cắt nát linh hồn tôi… Thật khủng khiếp nỗi đau vô hình này – Tôi không có Đức tin chi cả. Tuyệt vọng, trống rỗng, không đức tin, không tình yêu thương, không lòng sốt sắng,… Tôi lao khổ vì điều gì? Nếu không có Thiên Chúa, thì không có linh hồn. Nếu không có linh hồn thì, ôi Giê-xu, Ngài cũng không có thật. ”

Theo Brian Kolodiejchuk, có thể có một số người giải thích sai điều Teresa muốn nói, đức tin của bà đối với Thiên Chúa không hề sút giảm, trong khi Teresa đánh mất cảm giác kề cận Thiên Chúa, bà không hề tra vấn về sự hiện hữu của ngài. Nhiều vị thánh khác cũng có những trải nghiệm tương tự như trường hợp của Thánh Teresa Lisieux.

Dòng Thời gian

1910 - Ngày 26 tháng 08, Agnes Bojaxhui cô con gái út của Nicola và Drana sinh ra và lớn lên tại Skopje, thủ phủ của Cộng Hòa Albania thuộc Macedonia. Ngày 27 tháng 08, Agnes được chịu phép Thánh Tẩy tại nhà thờ giáo xứ Thánh Tâm Chúa Giê-su và được nhận thánh hiệu A-nê (Gonxha - A-nê).

1918 – Cha của Agnes, ông Nicola qua đời đột ngột. Ông chết vì bị đầu độc sau một cuộc họp chính trị.

1924 – Lazan, anh trai của Agnes lại rời nhà đến học tại một học viện quân sự Úc.

1925 – Linh mục Jambrenkoic trờ thành cha xứ. Agnes tham gia hội tương tế Thành Nữ Đồng Trinh Maria của cha xứ thành lập.

1928 – Agnes cùng mẹ và chị ruột Aga hành hương đến Letnice. Tại đây, cô nhận thấy đã đến lúc đi theo thiên hướng của mình. Tháng 09, cô được dòng Loreto chấp thuận.

1929 – Tháng Giêng, Agnes đến Calcutta, sau đó đi tiếp đến Darjeeling, nơi cô bắt đầu cuộc sống một nữ tu tập sinh.

1931 – Ngày 24 Tháng năm, Agnes làm lế Tiên Khấn ( Đây là nghi thức khấn dâng trọn đời cho Chúa tạm thời, với thờ hạn kéo dài sáu năm. Trước khi chính thức Khấn Trọn Đời.) và trở thành Xơ Teresa.

1937 – Ngày 24Tháng Năm, Xơ Teresa Khấn Trọn Đời. Sau đó Xơ trở về Entally. Một quận phía đông Calcutta.

1946 – Ngày 10 Tháng Chín, Nhận được ơn gọi cách riêng của Chúa, Xơ Teresa rời bỏ cuộc sống tu viện và đi đến làm việc và sống với người nghèo trong các khu ổ chuột.

1948 – Tháng Tám, Rome chấp thuận cho phép Xơ Teresa tách khỏi dòng Loreto nhưng vẫn là Nữ Tu.

Xơ Teresa chọn bộ áo Sari trắng viền xanh với mong muốn trở nên người phụ nữ nghèo khó nhất tại Ấn Độ, và cũng nói lên khát vọng noi gương Mẹ Maria Đồng Trinh.

Sau đó, Xơ tìm đến Petna, nơi Hội Nữ Tu Truyền Giáo giúp hướng dẫn cho bà một số kỹ năng y tế cơ bản. Bốn tháng sau, Xơ về Calcutta và đến với Nhà Dưỡng Lão của Hội Nữ Tu Bạn Người Nghèo.

1949 – Tháng Hai, Xơ chuyển đến Creek Lane. Tháng Ba, một học trò cũ của Xơ, cô Subashini Das, đến cộng tác, và trở thành người môn đệ đầu tiên. Không lâu sau đó các học trò cũ khác cùng đến tham gia.

1950 – Ngày 07 Tháng Mười, một Thánh Lễ được cữ hành để Kỷ Niệm ngày thành lập Dòng Thừa Sai Bác Ái. Mười Chí Nguyện sinh được nhập tập viện với thời gian kéo dài hai năm.

1953 – Tháng Hai, ngôi nhà số 54a Lower Circular được mở rộng và trở thành Nhà Mẹ của Dòng Thừa Sai Bác Ái. Xơ Teresa trở thành Mẹ Teresa.

Mẹ tiếp tục công việc với lớp người nghèo khổ, người bệnh và tầng lớp người cùng đinh. Mẹ Teresa lien hệ với cảnh sát trưởng và văn phòng y tế Calcutta, xin được một nhà trọ hành hương cũ, và Mẹ đã biến nơi đó thành Nirmal Hriday.

1957 – Tháng Chín, Phòng khám chữa bệnh phong hủi lưu động bắt đầu hoạt động.

1960 – Một trung tâm đầu tiên bên ngoài Calcutta đưa vào hoạt động tại Ranchi.

1962 – Mẹ Teresa là người đầu tiên không phải người Ấn Độ được nhận giải thưởng uy tín Padma Shri.

1963 – Hội Anh Em Thừa Sai Bác Ái được thành lập.

1965 – Trung Tâm đầu tiên không nằm trên đất Ấn Độ được thành lập tại Venezuela.

Giáo Hoàng Paul VI thăm Bombay. Nhân dịp này, Đức Giáo Hoàng tặng Mẹ Teresa chiếc xe Cadillac, và Mẹ đã cho bán đấu giá để lấy tiền cho Hội.

1969 – Chính phủ tặng một khoảnh đất rộng 36 arcre cho Hội và Mẹ đã cho xây cất nhà dành cho người bệnh phong. Đến cuối thập niên 60, tống cộng 25 trung tâm như thế đã được thành lập.

1979 – Mẹ Teresa được trao tặng giải Nobel Hòa Bình.

1980 – Thái Tử Charles Anh Quốc thực hiện chuyến viếng thăm đặc biệt Hội Thừa Sai Bác Ái tại Calcutta.

1990 – Bất chấp mong muốn được rút lui của Mẹ, các nữ tu vẫn nhất trí tôn Mẹ Teresa là Mẹ Bề Trên.

1992 – Công Nương Diana của Anh Quốc đến thăm Mẹ đang dưỡng bệnh tại Rome.

1994 – Ngày 01 tháng 04 Mẹ Teresa đến Việt Nam, đây là quốc gia thứ 111 có sự hoạt động của Dòng Thừa Sai Bác Ái (Nữ Tử Bác Ái). Hai nhà tại Việt Nam là nhà thứ 501 và 502 của dòng.

1996 – Mẹ Teresa bị các cơn đau tim nặng.

1997 – Mẹ Teresa qua đời ngày 05 tháng 09.

Ấn Độ tổ chức lễ Quốc Tang vào ngày 13 tháng 09. 2003 – Ngày 19 tháng Mười, Giáo Hội Rome tổ chức Thánh Lễ phong chân phước cho mẹ Teresa. Nhân đó, Hội Đồng Giám Mục Ấn Độ, với sự ủng hộ rất đông người trong nước, đã chính thức đề nghị Thủ Tướng Ấn Độ lúc bấy giờ là ông Vajpayee tuyên bố ngày 19 tháng 10 năm 2003 là ngày lễ nghĩ của quốc gia.

Lời bloger: Đôi khi, chỉ một câu nói có thể làm thay đổi cuộc đời của một con người, chỉ một con người có thể làm thay đổi thế giới. Hãy làm những điều tốt đẹp, suy nghĩ những điều tốt đẹp, dệt cuộc sống bằng những ước mơ tốt đẹp để gieo vào thế giới bao la những mần cây tốt đẹp.

Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2010

Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2010

Viết cho ngày cuối năm...

31/12/2009...

Một ngày cuối năm bắt đầu trong sương mù,mưa lâm thâm và lành lạnh. Cái lạnh không lạnh hẳn mà chỉ man mác u sầu tiễn biệt năm cũ.

Tiễn chào năm cũ, đêm nay chào đón năm mới, chào đón một mùa xuân mới, một mùa xuân hoan hỷ và thượng lộ, ấm áp và yêu thương, hy vọng và chờ đợi...

Chúc nhừng điều tốt đẹp, cầu mong những điều tốt đẹp, đón chờ những điều tốt đẹp và chúc mọi người một năm mới tốt đẹp.

Một buổi tối ấm áp bên gia đình và người thân.

Chức mừng năm mới...